Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2011

Trần Khải Thanh Thủy: Giáng Sinh về – Nhớ những người còn nằm trong ngục tối

Posted on by



Thấm thoắt tôi đã ở Mỹ được 6 tháng, thời gian lùa tháng ngày như ngựa trên đồng cỏ, ngược hẳn với quãng thời gian trong nhà tù xã hội chủ nghĩa trước đó. 

Khi ấy, cuộc đời tôi vốn chỉ có máu và nước mắt, bị bạo hành cả về thể xác lẫn tinh thần, không những bị cô lập với cánh bạn tù thường phạm mà cả với nhà dân chủ tọa kháng Phạm Thanh Nghiên, hay dân oan mặc quần áo lót đi biểu tình Trần Ngọc Anh (vốn bị nhốt chung trong một phân trại nữ) cũng bị “cấm vận tình cảm”, như mặt trăng với mặt trời, sao hôm với sao mai, như ngày với đêm. 

Cứ khoảng một tuần hay nửa tháng lại nghe tin hội đầu gấu Hải Phòng, Ninh Bình, Hà Nội chuẩn bị “táp lô” (đánh hội đồng) vì tội viết bài cho “phản động” hòng lôi kéo Mỹ trở lại xâm lược Việt Nam. 

Mệt mỏi, căng thẳng đến kiệt quệ cả thân xác, chưa kể 5 ngày 3 lượt bị cai ngục khám buồng, lục tung nội vụ để tịch thu giấy tờ sách vở, bút chì bút mực, tác phẩm….

Nguy hiểm nhất là bị cắt thuốc dài ngày nên lượng đường trong máu tăng vọt, bao nhiêu biến chứng âm thầm phát sinh…

Tuy vẫn được gia đình thăm nuôi đều đặn (một tháng một lần theo quy định khiến các bạn tù phải phát ghen) nhưng những cơn chấn thương liên tục dội về ám ảnh, gây chấn động sâu sa ở cả thể chất lẫn tâm thần. 

Cảm giác đau ốm lan tỏa rõ rệt từ các ngón tay đến các đầu mút giây thần kinh… Nếu không được ông bạn vàng “đế quốc Mỹ” giải cứu kịp thời chắc đã hóa thân thành cây cỏ, làm một hạt sương, vạt nắng nơi ngọn đồi thoai thoải ở núi Mành – nghĩa trang của trại – rồi.

Còn hiện tại, như một cánh chim bay trên bầu trời mênh mông lộng gió, một người tự do đi trên đại lộ thênh thang, một chú ngựa tung bờm trên thảo nguyên bao la rộng lớn, tôi bỗng nhớ về những con người vô cùng can đảm gan góc đang bị đầy đọa chôn chân nơi nhà tù cộng sản, những Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Vi Đức Hồi, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Công Chính, Cù Huy Hà Vũ, Đỗ thị Minh Hạnh, Tạ Phong Tần, Bùi thị Minh Hằng v.v… 

Nhiều lắm, chỉ riêng số thanh niên tôn giáo bị bắt trong hai tháng 7 và 8 năm 2011, ngay sau khi tôi ra tù đã là 15 người… 

Những người này chính là nền móng trụ cột cho xã hội tương lai không cộng sản sau này. 

Những gương mặt rắn rỏi can trường, cương trực của phái mày râu và vẻ đẹp gan dạ, nữ tính, hồn nhiên, thuần khiết của phái đẹp… 

Tiếc rằng trang viết hạn hẹp, sức tư duy của người mới thoát ra khỏi trại tù sau 21 tháng bị cộng sản trần cho tơi tả giữa độ tuổi 52, không thể nào hồi phục nhanh như lần ra tù trước, hay khi đang ở độ “đang xoan” bên chồng, con và đại gia đình được, nên trong bài viết nhỏ này chỉ có thể điểm qua vài gương mặt tiêu biểu.

1. Trong suốt thời gian bị cầm tù cũng như những ngày được tự do trên đất Mỹ, trong tôi luôn văng vẳng những câu thơ hào hùng gan ruột của Nguyễn Tiến Trung.

Ta sẽ về chốn cũ
Nơi lang sói rập rình

Giữa muôn ngàn thử thách

Lòng ta vẫn kiên trinh.

Quê hương còn đau nặng

Đâu lẽ ta đứng nhìn?

Gian nan đời nước nhỏ

Đâu lẽ ta lặng im?

Chân dẫm muôn ngàn nẻo

Qua cả vạn dặm đường

Tự do nơi đất khách

Dân chủ – mộng đêm trường.

Đi tìm người đồng chí

Phối hợp cả trong ngoài

Vận động nơi quốc tế

Hướng về một ngày mai.

Đường đi còn gian khổ

Nhưng chân cứng đá mềm

Trong hoàng hôn đã thấy

Một mặt trời mọc lên…
 
Con đường của Trung sẽ dễ dàng biết bao nhiêu nếu như Trung không “phạm phải sai lầm chết người” như những nhận định ngu đần và xảo trá của bộn bồi bút đảng: “Thật là tuổi trẻ ngông cuông và rồ dại”…

Một công việc đàng hoàng nơi đất Pháp với mức lương tháng 4000 Euro, một người tình hoặc cô vợ trẻ xinh xắn bên cạnh, một ngôi nhà gọn gàng ấm cúng với những tiện nghi sang trọng, một hạnh phúc có sẵn và mức sống trên thời đại, cũng là giấc mơ của người Việt Nam trên đất Pháp. 

Đường Trung đi trải đầy thảm nhung và hương sắc, vậy mà trong tâm hồn và trái tim Trung lại xôn xao nao nức tình yêu đất nước. 

Giữa kinh thành ánh sáng, Trung vẫn rung động với mỗi giọt nắng quê hương, mỗi kỷ niệm từ thời ấu thơ đã trải qua bên mẹ cha và bạn hữu. Chỉ vì “Quê hương còn đau nặng”, không đang tâm đứng nhìn, thương cho “đời nước nhỏ” nên không thể lặng im khi cộng sản dâng công hàm bán biển đảo cho giặc, Trung chấp nhận trở về, và bị bọn lang sói chộp rình, giở trò ngay khi vừa đặt chân lên mảnh đất Việt Nam, bị buộc vào quân ngũ và khi không chịu hô khẩu hiệu “trung với đảng, hiếu với cha, nhiệm vụ nào cũng vì tiền, nhũng tham nào cũng bỏ qua, kẻ thù nào cũng…khiếp vía” mà Trung đã bị đảng giam cầm trong ngục tối, với bầu không khí âm u, tù hãm quái đản vây bủa quanh năm, suốt tháng để đợi ngày mặt trời mọc lên.

Đảng cộng sản Việt Nam bao năm qua đã bị tinh thần quốc tế vô sản do ông Hồ du nhập vào làm vấy bẩn, nên làm sao có thể chấp nhận một tâm hồn hào hiệp, cao thượng như Trung? 

Vì thế, như một vành trắng trên khoang cổ quạ, Trung đã bị chúng dùng chính học thuyết cổ hủ lỗi thời ác độc này để “thọc huyết” tâm hồn cao thượng của Trung, như một chân lý bất biến vĩnh hằng: “Nhà nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho mày đi học ở các nước tiến bộ, không phải để mày đem những quan điểm tiến bộ, hòa nhập toàn cầu về “dạy lại chúng tao” 

Việt Nam chỉ có một đảng cộng sản thôi, điều 4 hiến pháp đã quy định rõ rồi, dẫu có là 4 tấm ván trong chiếc quan tài định mệnh chôn chặt tương lai của 87 triệu người dân bên trong đi chăng nữa cũng phải chịu. 

Mày đòi đa nguyên đa đảng, đòi thành lập “tập hợp thanh niên dân chủ”, đòi làm đảng viên đảng tự do dân chủ đối lập à? Đừng mơ hão nghe con, xứ mù thằng chột làm vua, mày lại cậy sáng mắt thì nhiệm vụ của những kẻ độc tài, độc đảng, phát xít, sát nhân chúng tao là phải chọc mù mắt mày, để không còn ai dám theo gương sáng của mày, bỏ ra ngoài quan tài chủ nghĩa xã hội của độc đảng chúng tao nữa, để chúng tao còn tiếp tục lừa bịp, cướp bóc, nuốt chửng tài nguyên thiên nhiên cũng như tương lai dân tộc này mãi mãi.”

2. Nếu khoa tướng học chia mặt người ra làm ba loại: Ngụy diện, hiền triết và công khanh thì Cù Huy Hà Vũ thuộc diện công tước, khanh hầu. 

Ngay khi vừa lọt lòng mẹ, anh đã sở hữu một gương mặt đẹp, da trắng, môi đỏ như môi con gái, khác hẳn với dáng vẻ mập mạp thô kệch của người cha. 

Điều này do di truyền chéo, nói như kinh dịch là “Bố tìm thấy con gái, mẹ tìm thấy con trai”, anh giống đúc bên ngoại, đẹp từ lúc mới sinh cho đến lúc về già. 

Xét một cách tổng quát, anh có đủ cả thần, khí, sắc. Dáng đi chững chạc, đàng hoàng, tiếng nói ôn hòa ấm áp, phong thái chính trực, phong lưu. 

Lẽ ra là người “giàu ở làng, sang ở nước”, chỉ vì chót đầu thai nhầm thế kỷ, nhầm chế độ, nhầm thời đại mà một người tử tế, có cá tính như anh quá lận đận về đường công danh, sự nghiệp. 

Tuy là con ông cháu cha, được sang Pháp học, nhờ có trí thông minh và sự đam mê hứng thú mà anh vừa giỏi về luật, lại vẽ tài, làm thơ viết văn đều được, khi trở về nước sống trong tán rợp của cha, con đường anh đi được đảng trải thảm đỏ, giơ tay dắt vào tận bộ ngoại giao, một bộ béo bở nhất nhì thời bấy giờ, đi nước ngoài như đi chợ, và dễ dàng buôn lậu dưới tấm hộ chiếu ngoại giao, lại được các đồng chí lãnh đạo bộ quan tâm cất nhắc giới thiệu kết nạp đảng từ khi còn rất trẻ, trở thành nền tảng, nòng cốt để đào tạo cán bộ tiền nhiệm cốt cán sau này… 

Gì chứ chức trưởng phòng, viện trưởng, thứ trưởng hoặc bộ trưởng, thậm chí phó thủ tướng cũng không phải là ngoại lệ nếu anh biết đồng nhất mình với đảng, cúi lưng phục tùng những mệnh lệnh dốt nát chuyên quyền độc đoán của đảng. 

Chỉ vì không chịu làm một trí thức trùm chăn, cha, đảng đặt đâu con ngồi đấy, lại muốn đem sự hiểu biết, thông thái đã học của mình ra thi thố với đời, nên ngay từ buổi tranh luận đầu tiên về vai trò của đảng cộng sản Việt Nam anh đã gây phản cảm với bí thư chi bộ khi khăng khăng khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam chỉ có thể là một trong những chính đảng ở Việt Nam chứ không thể là duy nhất”. 

Mầm mống nổi loạn, đa nguyên, đa đảng đã có trong anh từ ngày đó và tất nhiên lá đơn của anh bị… đánh rớt.

Sau một thời gian ngấm ngầm thử thách, không biết vì quý năng lực làm việc, sự hào hoa phong nhã của anh, một người có sức hút với cả giới đàn ông trong cơ quan (bất kỳ ai, dù bảo vệ hay đồng nghiệp, hễ gặp anh là có thiện cảm, muốn giao tiếp, kết bạn) hay vì cái ghế quyền lực của bố anh qúa lớn mà anh được bí thư chi bộ đảng lưu tâm cất nhắc lần thứ hai, yêu cầu viết lại đơn, thay đổi khẩu khí, thái độ v.v để kết nạp, hòng có chỗ dựa vững chắc cho việc lên lương, lên chức sau này. 

Nhưng không, anh bảo, giọng tự hào, chắc nịch: “Ai chứ Cù Huy Hà Vũ này chỉ viết đơn một lần, cũng như lấy vợ một lần, không bao giờ có chuyện tái hôn hoặc cưỡng hôn, càng không thể sửa sai khi biết mình đúng”. Hỏi về bản chất xã hội chủ nghĩa, thay vì phải trả lời như vẹt câu cửa miệng đã được mớm sẵn: “Chủ nghĩa xã hội ưu việt và nhân đạo gấp triệu lần tư bản”, thì anh cười khùng khục trong cổ họng, tuyên bố một câu xanh rờn, không chút vòng vo kiêng nể: “Theo tôi nó chỉ là một sự bố thí thôi.”

Chính vì sự ngông nghênh, ngang ngạnh, không chịu “ăn theo nói leo” này mà anh bị cô lập, bị để mắt, bị đẩy ra khỏi tán rợp của người cha “khai quốc công thần”, phải bỏ bộ ngoại giao ra ngoài lập văn phòng luật sư riêng cùng vợ.

Gieo cá tính, gặt số phận, mang danh là kẻ sĩ, trí thức, anh luôn phục thiện, sẵn sàng cúi đầu trước sự hiểu biết và lòng nhân ái của mọi người, như truyền thống gia đình để lại, nhưng luôn khinh ghét những kẻ xảo quyệt, tầm thường. Đó là lý do để anh viết đơn, lao đầu vào những vụ kỳ án rắc rối ở Việt Nam, kiện từ ủy ban nhân dân thành phố Huế đến lãnh đạo bộ văn hóa thông tin, lãnh đạo đảng và nhà nước. Và một kết cục không thể khác được là trở thành Từ Hải chết trong vây, cánh, phe nhóm của đảng cộng sản, đứng đầu là tên sát nhân Nguyễn Tấn Dũng…

3. Khuôn mặt kiêu hùng, sắt đá, hơi lạnh lùng của Trần Huỳnh Duy Thức ám ảnh tôi ngay từ cái nhìn đầu tiên. Anh sinh vào năm Bính Ngọ (1966), với đôi mắt thâm trầm dưới cặp lông mày rậm rạp, trong con ngươi nơi đồng tử của anh luôn có một ngọn lửa tư duy nung nấu. Đôi môi rộng, sống mũi thẳng, hai tai lớn, bộ ria mép Ả rập… 

Một bộ mặt rất phù hợp với câu nói của khổng Tử 300 năm trước mà tôi vẫn luôn lấy làm kinh điển cho mình khi nhìn nhận về những người thuộc phái mạnh: “Người quân tử sang ở cốt, không sang ở mã”.

Về thể xác, anh không thuộc về mã người đẹp trai, song có cốt cách lớn, tự cho mình là một trong những động lực chính để phát triển xã hội trong thời đại tin học và hội nhập toàn cầu, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, nên đã không dừng lại ở cương vị giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân (vốn đi đầu trong lĩnh vực tin học ở Việt Nam) mà tự nguyện xông pha trên con đường lớn, dẫu lắm chông gai vì không thuộc sở trường, lĩnh vực tin học của mình, song lại phù hợp với tính cách đại trượng phu, luôn cứu nhân độ thế trong anh: “Lòng trai không nao, nề chi gian lao, cùng nhau tung chí anh hào”… 

Hết nghiên cứu về kinh tế, chính trị lại tình hình xã hội, văn hóa với mục đích “cảnh báo các lãnh đạo đứng đầu Nhà nước, Đảng và Chính phủ về nguy cơ đất nước sẽ bị thôn tính, biến thành thuộc địa kiểu mới trong thời đại toàn cầu hóa”. 

Vì thế anh đã bỏ thời gian, sức lực, tâm huyết để gửi thư trực tiếp đến các vị lãnh đạo thông qua bưu điện hoặc nhờ một số người có quan hệ trực tiếp gửi đến tận tay họ, như thư ngày 7/1/2004 gửi Chủ Tịch nước Nguyễn Minh Triết, thư ngày 14/4/2007 gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng… 

Không những thế, anh còn chọn cách viết blog để đăng tải những bài viết của mình để chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng của Chính phủ và Quốc hội trong việc vạch kế hoạch phát triển và mục tiêu tăng trưởng, cũng như mặt trái của thị trường chứng khoán nước nhà (không những bị biến thành nơi rửa tiền, để bọn tham nhũng đầu cơ trục lợi, mà còn để lại hậu quả lâu dài do người dân vay vốn ngân hàng vô tội vạ để đổ vào chứng khoán). 

Ngay việc cổ phần hóa cũng bị biến thành cơ hội có một không hai để bán rẻ tài sản toàn dân cho nước ngoài, không kể những kẻ cơ hội ngày một phát triển, len lỏi ở tất cả mọi nơi từ cơ quan đảng đến nhà nước, chính phủ đến quốc hội, trung ương đến địa phương, cơ quan hành chính đến các doanh nghiệp, khiến nền kinh tế bị khủng hoảng, suy kiệt nặng nề và cái kết cục cuối cùng không tránh được là sự sụp đổ toàn diện vì nguồn lực trong nước không những không được tạo mới mà còn bị khai thác tràn lan đầy phí phạm.

…Kết quả của những chuỗi dài nhiều đêm thức trắng trong hơn 5 năm làm việc với một nhiệt huyết cháy bỏng, một nghị lực phi thường, một sự vùng lên không ngừng của trí tuê Việt Nam thể hiện qua năm mươi bài viết, bản kiến nghị của anh tới đảng và nhà nước, yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam hãy chấn đạo quốc gia để tạo an hòa cho việc phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước, giải thoát cho 87 triệu dân, đặc biệt là thân phận hẩm hiu của 70% nông dân, đồng thời tránh hiểm họa mất nước do Đại Hán Trung Quốc gây ra… 

Bao nhiêu tâm huyết, trí tuệ đổ ra, không những không được lãnh đạo quan tâm để mắt tới mà còn là lý do để đẩy anh vào tù, đơn giản vì bản chất của lãnh đạo là khinh học, quen cai trị những kẻ dốt nát, thất học nên khi thấy anh vượt mặt họ về lĩnh vực tri thức liền cuống cuồng hoảng sợ, quy cho anh tội hoạt động chống đảng và nhà nước, với mức án kinh dị (16 năm tù và 5 năm quản chế).

Xét về phương diện khách quan, cả 3 người đều là con nhà nòi, học hành bài bản đến đầu đến đũa, người học ở Pháp, người ở Mỹ, tất cả đều chung một quan điểm: Không chịu nổi sự trì trệ, bảo thủ, chậm tiến của xã hội Việt Nam trong việc điều hành của lãnh đạo, muốn chấn hưng nền kinh tế của đất nước theo những mô hình họ lựa chọn và muốn được cùng lãnh đạo đất nước chung sức xây dựng từ vốn liếng đến kinh nghiệm… 

Chỉ vì những đầu óc bã đậu, đỉnh cao ..trí tệ cùng khả năng “ngu kỳ diệu” của các tầng lớp lãnh đạo đảng mà họ đã bị bắt khi chưa kịp làm rõ chân lý.

Giờ đây trong ngục tù cộng sản, người thụ án 7 năm, người 16 năm, họ vẫn là những con người can đảm, giàu năng lực suy đoán, biết ứng phó, nhạy cảm với khuynh hướng tự do dân chủ ở ngoài đời. Song họ cũng đã kịp rút ra bài học xương máu cho mình, tỏ ra khôn ngoan kín cạnh hơn khi đã qúa tin tưởng vào đám cán bộ lãnh đạo xảo quyệt, ngu dốt trong môi trường chính trị gian giảo, đầy thủ đoạn, cạm bẫy ở Việt Nam.

Dù thế nào, sự thật luôn có con đường khách quan, tự nhiên của nó. Lịch sử sẽ làm tròn sứ mệnh khi giao gánh nặng của dân tộc cho họ, và với bản chất chí khí can trường, họ đang gánh vận mệnh dân tộc trên vai mình, không phải là 7 năm, 10 năm, 16 năm như luật rừng của đảng tuyên án mà chỉ còn là năm, hoặc tháng thôi. 

Ngày mà cộng sản phải đền tội cho những tội ác tày trời đang cận kề. Họ không thể cứ tồn tại bằng cách lừa miếng với dân tộc mãi được. Sức ép của dư luận quốc tế đang dần lớn mạnh, sự chịu đựng của người dân cũng chỉ có giới hạn. 

Con giun xéo mãi cũng phải quằn, cuộc sống của 87 triệu dân Việt Nam sẽ được điều phối bằng luật nhân quả do trời định đoạt… và mặt trời sẽ mọc lên nơi cuối cùng tăm tối trên mảnh đất không còn độc tài, đảng trị này để đón họ về trong vòng tay yêu thương của cha mẹ, cộng đồng, vợ con và bạn hữu cả trong và ngoài nước.

Ngày ấy, ngày ấy sẽ không xa và những con người vì nước vì dân sẽ là người chiến thắng.

Sacramento 19/12/2011
TKTT
Theo Viettan

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét