Chiến tranh Nam Bắc 1954 -1975: Sau 1954, nhân dân miền Bắc sống nghèo đói dưới chế độ độc tài Cộng Sản, trong khi nhân dân miền Nam sống trong no ấm, tự do . Theo tinh thần hiệp định Geneve 1954, dân chúng được quyền tự do lựa chọn miền đất mà mình muốn sinh sống, rồi sau đó 2 năm sẽ có một cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc để người dân được lựa chọn người lãnh đạo đất nước. Nhưng từ những ngày đầu, Cộng sản đã vi phạm trầm trọng hiệp định Geneve. Tại vùng quê miền Bắc, Cộng sản ngăn cản không cho dân chúng di cư vào miền Nam. Họ còn bắt giam, thậm chí bắn chết các thuyền nhân vượt biên vào Nam. Ở miền Nam, Cộng sản chôn dấu vũ khí trong vùng quê chờ ngày thực hiện chiến tranh phá hoại. Họ còn gài cán bộ Cộng sản ở lại miền Nam để xúi dục dân chúng phá hoại kết quả cuộc bầu cử sắp diễn ra. Biết được mưu toan đó Tổng thống Ngô Đình Diệm đã hủy bỏ cuộc Tổng tuyển cử và quyết tâm xây dựng một chính quyền vững mạnh để bảo vệ miền Nam tự do. Cộng Sản Bắc Việt khôn khéo lập nên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để che đậy sự xâm lăng. Với súng đạn của Liên Xô và Trung Cộng, họ bắt đầu ám sát nhân viên chính quyền miền Nam, rồi sau đó ào ạt tấn công miền Nam đang sống trong hòa bình, no ấm. Một mặt họ tuyên truyền láo khoét về một xã hội miền Bắc tốt đẹp không có trong thực tế để lôi cuốn nông dân và những người nhẹ dạ ở miền Nam. Mặt khác, họ tuyên truyền với người dân miền Bắc về một cuộc xăm lăng của "đế quốc Mỹ" đang giết hại nhân dân miền Nam. Với nghệ thuật tuyên truyền khéo léo, họ dần dần chiếm được cảm tình của một số nông dân miền Nam và đưa được người vào chính quyền để phá hoại nền dân chủ non trẻ mà người dân miền Nam mới gây dựng được. Trong suốt cuộc chiến, hay trong cơn lửa đạn, người ta luôn nhìn thấy hình ảnh đồng chạy về phía những người lính Việt Nam Cộng Hoà và xa lánh quân đội Cộng Sản. Người ta nhìn thấy quân đội Việt Nam Cộng Hoà hay mở vòng tay đón tiếp, cứu giúp đồng bào, trong khi quân đội Cộng Sản hay pháo kích, bắn vào người dân di tản chiến tranh. Sau khi Cộng Sản chiếm được miền Nam, người ta vẫn còn thấy cảnh người dân trốn chạy Cộng Sản, bỏ nước ra đi tới hơn 20 năm sau.
The North-South war, 1954-1975: From 1945, the North suffered from a dictatorial communist regime, while the South was a prosperous and free country. By the Geneva agreement of 1954, the Vietnamese could choose the land that they want to live on. Then there would be a general election to select the country leader after 2 years. But from the first day, the communists continued to violate the agreement. In the North, the communists prohibited people to go to the South; they imprisoned, shot and killed many refugees. In the South, they buried the weapons, installed communist cadres to prepare for the war and to disturb the results of the election if needed. Knowing that plan, president Ngo Dinh Diem refused to join the election and was resolved to build up a strong government to protect the South from the communists. Taking that chance the communists started to attack the South. They created the “South Liberation Front” to disguise their invasion. With a large number of weapons from the Soviet Union and China, they attacked the South while people were living a peaceful life. On one hand, they complained about the “invasion” by American army. On the other hand, they tried to persuade the southern farmers to side
with them, using beautiful descriptions of the North that nobody ever seen. With their clever use of propaganda accompanying with terrorist acts, the VC gradually gained support from many southerners and succeeded in installing their spies into the southern government to destroy the young democracy that the South was just building up.
La guerre Nord-Sud de 1954-1975: A partir de 1954, le Nord souffrit d'un régime dictatorial communiste, tandis que le Sud fut un pays prospère et libre. Selon la convention de Genève de 1954, les viêtnamiens purent choisir le pays où ils voulaient vivre. Ensuite il aurait dû y avoir une élection générale pour choisir le chef du pays dans les 2 ans. Mais dès le premier jour, les communistes se mirent à violer l'accord. Dans le Nord, les communistes interdirent aux gens d’aller au Sud ; Ils emprisonnèrent, tirèrent et abattirent beaucoup de réfugiés. Dans le Sud, ils enterrèrent les armes, installèrent des cadres communistes pour préparer la guerre et perturber les résultats de l'élection, si nécessaire. Connaissant ce plan, le président Ngô Dình Diêm refusa d'adhérer à l'élection et se résolut à mettre en place un gouvernement fort pour protéger le Sud des communistes. Prenant cette chance, les communistes commencèrent à attaquer le Sud. Ils créèrent le « Front de libération du Sud » pour dissimuler leur invasion. Avec un grand nombre d'armes en provenance de l'Union soviétique et de la Chine, ils attaquèrent le Sud alors que les gens vivaient une vie paisible. D'une part, ils se plaignirent de « l'invasion » par l'armée américaine. D'autre part, ils essayèrent de persuader les agriculteurs du Sud de se joindre à eux en utilisant de belles descriptions du Nord que personne n'avait jamais vu. Avec leur utilisation habile de la propagande accompagnée d’actes terroristes, le viêt công gagna progressivement le soutien de nombreux habitants du sud et réussit à installer leurs espions dans le gouvernement pour détruire la jeune démocratie que le Sud commençait à mettre en place.
Cuộc Tấn Công Tết Mậu Thân, 1968: Hàng năm vào các ngày Tết Âm lịch, Việt Cộng đề nghị hưu chiến để quân dân hai bên có dịp đoàn tụ với gia đình trong những ngày đầu năm. Lợi dụng những ngày hưu chiến Tết Mậu Thân 1968, vào giờ giao thừa thiêng liêng của dân tộc, Việt Cộng tấn công vào hơn 40 tỉnh lỵ và thành phố lớn của miền Nam. Cuộc tấn công chia làm 3 đợt lớn, họ chiếm được một vài thành phố trong một thời gian ngắn nhưng sau cùng họ bị quân đội miền Nam và quân đội Đồng minh đẩy lui với những tổn thất rất nặng nề. Phía Việt Cộng có khoãng 55 ngàn binh sĩ tử thương và hơn 10 ngàn bị bắt sống. Phía miền Nam có hơn 5 ngàn binh sĩ tử thương và khoảng 1 ngàn bị mất tích. Phía quân đội Đồng Minh có khoảng 5 ngàn binh sĩ tử thương. Nhưng đau đớn nhất là số thường dân miền Nam bị thiệt mạng trên 14 ngàn người trong đó có trên 3 ngàn người bị Cộng quân chôn sống hoặc giết chết một cách dã man tại Huế. Trong hơn 50 hầm chôn tập thể ở Huế người ta thấy có cả đàn bà và trẻ em. Những xác đào lên cho thấy những người dân bạc phước ấy bị đập vào đầu, bị chặt đầu, chặt tay chân, hoặc bị chôn sống khi bị trói từng chùm từ 10 đến 15 người . Trong số những người bị Việt Cộng thảm sát có em bé trai 5 tuổi và em bé gái 3 tuổi con ông Phạm Văn Tường làm nghề gác cửa cho ty Thông tin. Việt Cộng bắn chết ông Tường, hai đứa con và 2 đứa cháu nhỏ của ông trước một căn hầm gần nhà.
The Tet Mau Than Offensive, 1968: Taking advantage of the truce during the 1968 Tet holiday, Viet Cong guerrillas attacked more than 40 counties and cities of the South on new year’s eve. The attacks came in three waves. At first, the VC captured a few cities in a short time. Later, they were expelled and sufferred heavy losses by the combined forces of the South and the allied forces. There were 55,000 deaths and 10,000 captives on the VC side. The South lost more than 5,000 soldiers and 1,000 captives. There were 5,000 deaths among the allied forces. But the worst part was that more than 14,000 innocent people were killed. Among them were more than 3,000 who were savagely killed or buried alive by the VC at Hue City. In more than 50 common graves created by the communists, people have found even bodies of women and children. The exhumation showed the unfortunate victims were struck on the head, decapitated, had their arms and legs chopped off, or were even buried alive, tied together in groups of ten to fifteen. Among those painful victims, there were a boy of five and a girl of three years old. They were the children of Mr. Pham Van Tuong who was the door guard of a communication office. The VC shot Mr. Tuong, his two children, and his two nephews in front of a trench next to his house.
L’Offensive du Têt Mâu Thân, 1968: Profitant de la trêve pendant la fête du Têt de 1968, les guérilleros viêt công attaquèrent plus de 40 comtés et grandes villes du Sud à la veille du nouvel an. Les attaques survinrent en trois vagues. Au début, le viêt công captura quelques villes en peu de temps. Plus tard, ils furent expulsés et eurent à subir de lourdes pertes par les forces combinées du Sud et alliées. Il y eu 55000 morts et 10000 prisonniers du côté viêt công. Le Sud perdit plus de 5000 soldats et 1000 prisonniers. Il y eut 5000 morts parmi les forces alliées. Mais le pire c'est que plus de 14000 personnes innocentes furent tuées. Parmi elles, plus de 3000 furent sauvagement tuées ou enterrées vivantes par le viêt công dans la ville Huê. Des corps de femmes et d'enfants ont même trouvés dans plus de 50 fosses communes créées par les communistes. L'exhumation a montré que les malheureuses victimes avaient été frappées à la tête, décapitées, avaient les bras et les jambes coupées, ou ont même été enterrées vivantes, liées ensembles par groupes de dix à quinze. Parmi ces victimes douloureuses, on trouva un garçon de cinq ans et une fille de trois ans. C’étaient les enfants de M. Pham Van Tuòng qui était le garde de la porte d'un bureau de la communication. Le viêt công abattit M. Tuòng, ses deux enfants et ses deux neveux en face d'une tranchée, à côté de sa maison.
Hiệp định Hòa bình Paris, 1973: Bị khó khăn với các phe phản chiến tại nước nhà, chính phủ Hoa Kỳ không thể tiếp tục viện trợ dồi dào cho miền Nam Việt Nam trong công cuộc chống Cộng. Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt hội nghị ở Paris hơn một năm để tìm một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến ở Việt Nam. Ngày 27 tháng 1 năm 1973 hiệp định hòa bình Paris được ký kết giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt. Hiệp định nầy gồm 9 chương và 23 điều quy định những thể thức ngưng bắn, rút quân, tổng tuyển cử ở miền Nam để nhân dân miền Nam được tự quyết số phận của mình. Hiệp định qui định về cách thành lập các Ủy ban Liên Hợp Quân Sự Bốn bên, các ủy hội Kiểm Soát và Giám Sát Quốc Tế. Hiệp định cũng ấn định về các tái thiết hậu chiến cho Việt Nam và cả Đông Dương. Về phía Hoa Kỳ, hiệp định Paris là cơ hội cho họ rút quân ra khỏi Việt Nam trong danh dự, chấm dứt sự liên hệ vào một cuộc chiến tốn kém nhiều tiền bạc và sinh mạng của quân đội Hoa Kỳ. Về phía Việt cộng, đây là một cơ hội tốt cho họ tấn công và chiếm trọn miền Nam mà không có sự can thiệp của quân đội Mỹ. Ngay trước khi hiệp định được ký kết, cán binh Việt cộng đã được học tập kỹ lưỡng về các kế hoạch vi phạm hiệp định, tiến chiếm, dành dân lấn đất. Sau đó thay vì ngưng bắn xây dựng hòa bình như tinh thần của hiệp định Paris, Việt cộng lại tấn công mạnh mẽ hơn để cuối cùng chiếm trọn miền Nam, năm 1975.
The Paris Peace Treaty in 1973: Having difficulty with the anti-war movement at home, the U. S. government could not continue to help the South government to fight the communists. The U. S. government and the Communists met in Paris for more than 1 year to find a peaceful solution for the Vietnam war. On January 27, 1973, the Paris Peace Treaty was signed by the U. S., the North, the South of Vietnam and the Liberation Front. The Treaty included 9 chapters and 23 articles, establishing the rules to cease-fire, to withdraw the armies, and to have general election at the South so the southerners can make decision for their own future. The Peace Treaty schemed the building of the Four-Side Army Committee, and the International Control Committees. The Treaty also planned for the post-war rebuild for Vietnam and for the entire Indochina. For the United States, the Treaty is a good chance to withdraw its army from Vietnam, ending an expensive war. For the VC, the Treaty is a wonderful opportunity for them to seize the South without the obstruction of the U. S. army. Similar to the Geneva agreement, before the treaty was signed, the communists already had a plan to break the agreement to capture the South. Instead of peacefully following the 1973 Treaty, the communists attacked the South with all of their strength to finally capture the South in 1975.
Le traité de paix de Paris en 1973: Ayant des difficultés avec le mouvement anti-guerre dans son pays, le gouvernement américain ne put continuer à aider le gouvernement du Sud à lutter contre les communistes. Le gouvernement américain et les communistes se réunirent à Paris pendant plus d’un an pour trouver une solution pacifique à la guerre du Viêt-Nam. Le 27 Janvier 1973, le traité de paix de Paris fut signé par les Etats-Unis, le Nord, le Sud du Viêt-Nam et le Front de Libération. Le Traité comprenait 9 chapitres et 23 articles, établissant les règles de cessez-le-feu, de retrait des armées et de tenue d’élections générales dans le Sud de sorte que les sudistes puissent prendre des décisions pour leur propre avenir. Le traité de paix projetait la construction d’un comité quadripartite de l’armée, et de comités de contrôle international. Le traité prévoyait également la reconstruction du Viêtnam et de toute l’Indochine après-guerre. Pour les États-Unis, le traité fut une bonne chance de retirer leur armée du Viêt-Nam, mettant fin à une guerre coûteuse. Pour le viêt công, le traité fut une merveilleuse occasion de s'emparer du Sud sans l'obstruction de l'armée américaine. Semblable à l'accord de Genève, avant que le traité ait été signé, les communistes avaient déjà un plan visant à le rompre pour capturer le Sud. Au lieu d’appliquer tranquillement le Traité de 1973, les communistes attaquèrent le Sud avec toutes leurs forces pour le capturer enfin en 1975.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, một chiếc xe tăng Cộng sản Bắc Việt do Liên Xô chế tạo đã ủi sập cổng trước dinh Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, ủi sập luôn nền dân chủ non trẻ, mà dân tộc Việt Nam xây dựng lần đầu tiên trong mấy ngàn năm lịch sử của mình. Sau đó cả đất nước Việt Nam đi ngược dòng tiến hóa, sống trong xã hội độc tài Cộng Sản. Xã hội bất công và thối nát, dân chúng lầm than hơn trong các chế độ phong kiến vua chúa ngày xưa nhiều lần.
Le 30 avril 1975, un tank Nord Viêtnamien communiste de fabrication soviétique enfonça les grilles du palais du Président de la République du Viêt-Nam du Sud, par cette action il écrasa aussi la première démocratie naissante au Viêt-Nam après des milliers d’années d’histoire du Viêt-Nam.
Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam năm 1975: Cộng Sản Bắc Việt dùng chiêu bài "Chống Mỹ cứu nước" để lường gạt nhân dân Việt Nam và thế giới . Mục tiêu thật sự của họ là Cộng Sản hóa nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản độc tài. Với sự hỗ trợ mạnh mẽ về súng đạn của Liên Xô, Trung Cộng, Cộng Sản dần dần thắng thế trong công cuộc phá rối xã hội miền Nam. Cùng lúc đó chính quyền miền Nam rối ren vì những cuộc đảo chánh nối tiếp nhau, vì những tướng lãnh bất tài, không có lòng yêu nước thay nhau nắm chính quyền làm mất lòng dân. Vì quyền lợi nước Mỹ không còn trực tiếp dính líu tới miền Nam và vì áp lực của các lực lượng phản chiến tại nước Mỹ, chính quyền miền Nam không còn được tiếp tế đầy đủ như trước. Quân đội miền Nam trở nên yếu thế, dù rằng quân nhân miền Nam vẫn còn chiến đấu anh dũng để bảo vệ quê hương. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau nhiều ngày rối ren, miền Nam thất thủ. Một số tướng lãnh như tướng Nguyễn Khoa Nam, tướng Lê Văn Hưng, tướng Trần Văn Hai, tướng Phạm Văn Phú, tướng Lê Nguyên Vỹ tuẫn tiết, một số ở lại bị Việt Cộng giết như Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Một số bỏ nước ra đi, phần còn lại bị Việt Cộng bắt giam, đày đọa trong các trại tập trung. Nhìn trở lại, quân đội miền Nam đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ quê hương tự do. Nhưng người Cộng Sản đã khéo léo hơn trong lãnh vực tuyên truyền và tổ chức. Họ đã huấn luyện quần chúng thành một đội binh "quân đội nhân dân" mà mọi người phải đóng góp vào cuộc chiến. Gián điệp của họ đã xâm nhập vào xã hội lỏng lẻo của miền Nam tạo nên tình trạng hỗn độn, rối ren để cho Bắc quân có thể đánh bại miền Nam. Trong suốt cuộc chiến, miền Băc thiệt hại 1 triệu rưỡi binh lính, miền Nam mất khoãng 400 ngàn, quân đội Hoa Kỳ đã mất 58 ngàn cùng với binh sĩ Đồng Minh khi giúp đỡ miền Nam. Ngoài ra còn vài triệu người dân vô tội đã chết trên trong cuộc chiến. Ai cũng có thể thấy cuộc chiến Việt Nam không cần phải có, vì chế độ Cộng sản chỉ là một chế độ độc tài, khát máu, không tôn trọng người dân, không cần thiết cho đất nước Việt Nam hay bất cứ đất nước nào trên thế giới. Thiên đường Cộng Sản mà họ diễn tả cũng chưa bao giờ hiện diện mà chỉ có những nước Cộng Sản với đầy dẫy những sự nghèo đói, giết chóc, bắt bớ, hận thù. Khẩu hiệu "Chống Mỹ cứu nước" chỉ là những lời vô nghĩa vì Hoa Kỳ chưa hề xâm chiếm Việt Nam. Sau khi Cộng Sản đánh đuổi người Mỹ đi, một thời gian ngắn sau, cũng chính họ cung kính mời người Mỹ vào.
Viet Cong captured the South in 1975: The northern communists used the slogan “Fight the Americans to save the country” to deceive the Vietnamese and the world. Their actual goal was to communize Vietnam under the dictatorial communist party. With massive help from the Soviet Union and China, the communists gradually won the war. At the same time, the southern government was destabilized by many coups d’etat, with army generals who had no patriotic hearts taking turns to govern the South. Because the interests of the United States were not directly related to South Vietnam, and with strong pressure from anti-war forces at home, the U.S. government stopped aiding to the South. The Southern army became weaker even though most of the soldiers still bravely fought to protect their homeland. In April 30 of 1975, after many days in chaos, the South surrendered. Some respectable generals, including Nguyen Khoa Nam, Le Van Hung, Tran Van Hai, Pham Van Phu, and Le Nguyen Vy, committed suicide. Others, such as Colonel Ho Ngoc Can, was killed by the communists. Many soldiers escaped to overseas and a large number were gathered in concentration camps. Looking back, the southern soldiers were very brave in defending their freedom and their motherland. But the communists were much clever in propaganda, organization and use violent force. They trained the general public to be the “people army” where everybody had to contribute toward the war. Their spies broke into the loose society of the South, caused confusion and destabilized the government so that their army could defeat the South. During the war, the North lost 1.4 million soldiers, the South lost 400 thousand, and the U.S. lost 58 thousand in helping the South. In addition, millions of innocent citizens were killed in the war. Obviously, the Vietnam war, started by the communists, was just a waste of people lives. The communism is just a bloody dictatorship that disrespects its citizens. The war was not necessary for Vietnam or any other country on earth. The communist haven that they always mention has never existed, but there are only communist countries with full of poverty, murder, hate and prisoners. The invading of the U.S. in Vietnam, as the VC cried, was also not real. The slogan “Fight Americans to save the country” is empty, since the communists have chased the Americans away and have respectfully invited them back.
Le viêt công capture le Sud en 1975: Les communistes du Nord utilisèrent le slogan « combattre les Américains pour sauver le pays » afin de tromper les viêtnamiens et le monde. Leur objectif réel était de communiser le Viêt-Nam dans le cadre du parti communiste dictatorial. Avec l'aide massive de l'Union soviétique et de la Chine, les communistes gagnèrent progressivement la guerre. Dans le même temps, le gouvernement du Sud fut déstabilisé par de nombreux coups d'Etat de généraux de l'armée qui n'avaient pas de cœur patriotique, pour gouverner à tour de rôle le Sud. Parce que les intérêts des États-Unis n'étaient pas directement liés au Sud-Viêt-Nam, et avec une forte pression des forces anti-guerre internes, le gouvernement américain cessa d'aider le Sud. L'armée du Sud devint plus faible, même si la plupart des soldats combattaient encore bravement pour protéger leur patrie. Le 30 avril 1975, après de nombreux jours dans le chaos, le Sud se rendit. Certains généraux respectables, y compris Nguyên Khoa Nam, Lê Van Hung, Trân Van Hai, Pham Van Phu, et Lê Nguyên Vy, se suicidèrent. D'autres, comme le colonel Hô Ngoc Cân, furent tués par les communistes. Beaucoup de soldats s’échappèrent à l'étranger et un grand nombre furent rassemblés dans des camps de concentration. Avec le recul, les soldats du sud furent très courageux dans la défense de leur liberté et de leur patrie. Mais les communistes furent beaucoup plus habiles à la propagande, à l'organisation et au recours à la force violente. Ils formèrent la population générale à être « l'armée du peuple », où chacun dut contribuer à la guerre. Leurs espions firent irruption dans la société relâchée du Sud, semèrent la confusion et déstabilisèrent le gouvernement pour que leur armée puisse vaincre le Sud. Pendant la guerre, le Nord perdit 1,4 million de soldats, le Sud en perdit 400.000, et les États-Unis en perdirent 58.000 en aidant le Sud. En outre, des millions de citoyens innocents furent tués. De toute évidence, la guerre du Viêt-Nam, fut initiée par les communistes et ne fut qu’un gaspillage de vies. Le communisme n’est qu’une dictature sanguinaire qui ne respecte pas ses citoyens. La guerre n'était pas nécessaire pour le Viêt-Nam comme pour tout autre pays sur terre. Le paradis communiste qu’ils mentionnent toujours n'a jamais existé. Il n'y a que dans les pays communistes que l’on rencontre la pauvreté généralisée, des assassinas, de la haine et des prisonniers. L'invasion du Viêt-Nam par les États-Unis comme le dit le viêt công n'était pas réel. Le slogan « combattre les Américains pour sauver le pays » est vide de sens, puisque les communistes ayant chassé les Américains au loin les ont respectueusement invités à revenir plus tard.
Đời sống và xã hội miền Nam từ 1975 đến 1985: Với chủ trương quản lý xã hội, quản lý con người, chánh quyền Cộng Sản kiểm soát gắt gao nhân dân miền Nam. Trạm công an, trạm thuế vụ mọc lên san sát trên mọi trục lộ giao thông để tịch thu hàng hóa, bắt bớ người dân. Mọi sự di chuyển, mọi sự chuyên chở hàng hóa từ 1 kilô đường, 1 kilô gạo, 1 kilô thịt đều phải xin phép chính quyền Cộng Sản. Ruộng đất, cơ sở kinh doanh đều thuộc sự quản lý của nhà nước. Người dân phải đóng thuế cho nhà nước gấp nhiều lần họ đóng thuế cho chính quyền Pháp đô hộ xưa kia, cao gấp 10 lần đóng cho chính quyền Việt Nam Cộng Hoà lúc trước. Vì không đủ tiền đóng thuế, nông dân miền Nam bị bắt bớ, tù đày, bị chiếm đoạt đất đai. Vào những năm 1976 đến 1980, lúa gạo của nhân dân miền Nam bị thu nạp đổ thành đống cao như núi giữa trời, mặc cho nắng mưa hư hỏng mục nát. Dù rằng đất nước đang nghèo nàn, hệ thống điều hành tồi tệ của chính quyền Cộng Sản rất phung phí của cải vật chất của nhân dân làm nên. Những người dân giàu có, những nhà kinh doanh có tài của miền Nam bị tịch thu gia sản, gia đình bị đày đi khai khẩn đất hoang, được gọi là vùng kinh tế mới. Tiền miền Nam được hoán đổi với một tỉ lệ cực kỳ bất công là 500 đồng miền Nam ăn 1 đồng miền Bắc khiến cho dân miền Nam thành nghèo khó phải bán đồ cho cán bộ miền Bắc với giá cực rẽ gần như cho không. Tài sản thu chiếm được của nhân dân miền Nam được chia chác giữa những đảng viên Cộng Sản và những người theo họ. Hậu quả là xã hội rối loạn từ vật chất lẫn tinh thần, mức sản xuất tụt giảm nhanh chóng. Nạn đói xảy ra ngay tại đồng bằng sông Cửu Long là nơi trù phú nhất của đất nước. Một số lớn trẻ em nông thôn bỏ học, giáo viên bỏ nghề vì nghèo đói. Học sinh đi học phải mang theo gạo, khoai đóng cho cô giáo. Thầy cô giáo đi dạy phải mang theo cà rem, bánh, trái cây bán cho học sinh vì tiền lương không đủ sống. Thiếu những phương tiện tối thiểu để học tập và bị cô lập với thế giới bên ngoài, nền giáo dục của miền Nam bị suy thoái trầm trọng. Từ những bài học kinh tế, xã hội ở miền Bắc sau năm 1954 và ở miền Nam sau năm 1975, người dân rút được một kinh nghiệm là khi chủ nghĩa Cộng Sản khống chế nơi nào, xã hội nơi đó trở nên nghèo đói, dân trí trở nên ngu dốt, đất nước hoặc là không tiến bộ, hoặc bị thụt lùi. Sau sự sụp đổ của các nước Cộng Sản Đông Âu vào cuối thập niên 1980, Cộng Sản Việt Nam bắt đầu cởi mở để mong đạt được những tiến bộ về kinh tế, nhưng chế độ độc tài Cộng Sản vẫn còn cai trị đất nước, kềm hãm sự tiến bộ của cả dân tộc.
Life in the South from 1975 to 1985: With the policy “control the society, control the people”, the communist government strictly controlled the South Vietnamese. They set up police and tax stations along the main roads to capture people and material. Any one going from one to another district; any transportation of more than 1 kilo of sugar, 1 kilo of rice, or 1 kilo of meat had to have permission from the communist government. Farmlands and factories were under the management of the government. People had to pay very high taxes, many times of what they paid to the French colonists and about 10 times of what they paid to the previous Southern government. Many southern farmers were imprisoned, or lost their land to the communists since they did not have enough money to pay for the high taxes. During the period from 1976 to 1980, farmers’ rice was collected and piled up like hills outdoor, wet and spoiled by rain. Even though the country was very poor, the wicked distributing system of the communists wasted a large portion of the national product. Consequently, the people became physically and mentally unhealthy. Productivity went down quickly. Starving happened right in the Mekong delta, the richest area of the country. Country students quit school and teachers quit teaching because of their poverty. In many districts, students going to school had to carry rice or sweet potatoes to pay to their teachers, and the teachers carried ice cream and candy to sell to the students during break times for additional income. Being poorly equipped and isolated from the rest of the world, the national education system deteriorated quickly. From the economical and social lessons of the North after 1954 and the South after 1975, the Vietnamese have learned that wherever the communists have taken control, people will be starved, uneducated, and the country as a whole would go backward. After the collapse of the East European communists at the end of 1980’s, the VC started to open to economic reform. But the dictatorial communists still controlled the whole country, putting a brake on the progress of the Vietnamese.
Đời sống của nông dân và công nhân miền Nam sau 1975: Giai cấp nông dân và công nhân là hai giai cấp nồng cốt dưới chế độ Cộng Sản. Cộng Sản Việt Nam long trọng tuyên bố đó là 2 giai cấp được yêu mến và ưu đải nhất trong xã hội. Sau khi chiếm được miền Nam, đảng Cộng Sản bắt đầu thu gom một số ruộng đất của nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp. Sau mỗi mùa gặt, nông phẩm được tập trung vào kho, nông dân được tập họp nghe những bài nói chuyện dài lê thê về công ơn trời biển của đảng và của Bác Hồ đã hoàn toàn giải phóng nông dân khỏi sự bóc lột của xã hội tư bản. Ngày nay, nông dân là người chủ thật sự của ruộng đất (dù rằng đất của họ đã bị hợp tác xã chiếm hữu không bồi thường). Trước sự hiện diện của lính du kích có vũ trang, họ phải tự xúc lúa đóng thuế cho nhà nước, trả tiền xăng nhớt và phân bón cho hợp tác xã. Sau đó dến chủ nhiệm hợp tác xã và ban lãnh đạo lãnh phần. Rồi sau cùng đến phần nông dân chia nhau số lúa còn lại. Thường thì nông dân lãnh không tới một phần tư số lúa mà họ có được khi họ tự canh tác ruộng đất của họ trước kia. Mỗi hợp tác xã được chỉ huy bởi một chủ nhiệm là đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam. Chủ nhiệm và viên thơ ký chịu trách nhiệm chấm công hàng ngày cho nông dân và cho chính mình. Chủ nhiệm được công điểm cao nhất rồi đến bà con họ hàng của chủ nhiệm. Sau cùng là nông dân thường được điểm thấp nhất và chịu thiệt thòi nhất. Hậu quả là nông dân không còn chăm chỉ làm việc như xưa, sản lượng thấp, xã hội nghèo nàn và đói kém. Nông dân miền Bắc có bài hát để nêu lên tình trạng bất công nói trên:
"Mỗi người làm việc bằng hai, Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe. Mỗi người làm việc bằng ba, Để cho chủ nhiệm xây nhà, xây sân !"
Về phía công nhân, họ cũng được học những bài học chính trị hàng tuần nói về công ơn trời biển của bác Hồ và của đảng Cộng Sản Việt Nam đã hoàn toàn giải phóng họ khỏi sự bóc lột của giai cấp tư bản, dù rằng đời sống vật chất của họ rất cơ cực và thiếu thốn nhiều. Họ được cho biết ngày trước họ làm ra sản phẩm chỉ để làm giàu cho chủ, còn họ không được đền bù xứng đáng. Ngày nay công nhân là những người chủ của đất nước vì thế họ cần phải làm việc nhiều hơn, tích cực hơn để xây dựng xã hội mới công bằng và hạnh phúc, không còn cảnh người bóc lột người. Sau đó công nhân được xếp loại theo bảng lương mới, thưng thì chưa tới 20% giá trị số lương trước kia. Hậu quả là công nhân nghèo đói phải đem bán những sản vật có giá trị như xe gắn máy, tủ lạnh, quần áo cho cán bộ Cộng sản là những người có nhiều tiền hơn, lãnh lương cao hơn. Đi sống của công nhân sa sút trầm trọng, nghèo nàn, ảnh hưởng đến sức khỏe, năng suất làm việc của toàn xã hội. Hậu quả là sản phẩm làm ra không có chất lượng. Một chiếc xe đạp quốc doanh mua về mới chạy một vài lần có thể gãy đổ bất thình lình, gây tai nạn cho người lái và khách đi đường. Vì hàng hóa không đủ tốt để cạnh tranh, xuất cảng, xí nghiệp không có tiền trả lương. Nhiều trường hợp công nhân được phát sản phẩm trừ lương. Thí dụ như, công nhân hãng thuốc lá được phát vài chục gói thuốc lá cho một tháng lương, công nhân hãng dệt lãnh khăn rằn thay lương, công nhân hãng ruột xe đạp lãnh vài cái ruột xe thay cho một tháng lương.
Life of the South farmers and the workers after 1975: Farmers and workers are two basic classes under Communism. Theoretically, they are the most favored and beloved by the communists. After capturing the South, the communists collected many of the farmlands into collective farms. After the harvest, rice and farm products were put into a temporary store. The farmers were gathered for long lectures about the great merit of the party and of uncle Ho, who had completely liberated them from the exploitation of the capitalist society. Now, farmers were the real owners of the cooperative and the whole country. Under the guns of the communist soldiers, farmers paid taxes with the rice, and also used the rice to pay the cooperative for gasoline and fertilizer. The leaders and the committee members took their rice. Then the farmers divided the rest of the food among themselves. Most of the time the farmers got less than a quarter of what they had when they worked by themselves. The leader gave him a daily rating on how well he had fulfilled his responsibilities. He also rated the farmers on how well they had done their duties. Usually, the leader gave him the highest score, and then gave his relatives the next highest score. Those who did the actual work—the farmers—got the lowest scores. Consequently, the farmers did not work as hard as before. The farm production went down. The society became poor and suffered hunger. Farmers had the following song to describe that unfair distribution:
“Each person works as double, So the leader can buy his radio and his bicycle. Each person works as triple, So the leader can build his house and his yard !”
Workers also had to endure long lectures about the great merit of uncle Ho and the party who freed them from the exploitation of the capitalist class. They were told that they used to work hard to make the factory owners rich and their compensation was too little. Now they were the new owners of the whole country, so they had to work even harder to build up the new and happy society without the “exploitation of man by man”. Then the workers received new salaries according to a new scale. Unfortunately, most of them now brought home less than 20% of what they used to earn before. The workers were stripped to the bone. They had to sell most their valuable belongings to the communists, who had more money. Malnutrition has affected the health and the productivity of the workers. Products with poor quality were seen everywhere. For example, brand new bicycles from a state-ran factory might collapse all of a sudden, causing accidents on the street. Since products with poor quality could not compete in the international market, the state-ran factories did not have money to pay the workers. Many factories paid their workers with their products. For instance, a worker in a cigarette factory received two cartons of cigarettes for his monthly salary. A worker in a texture factory received a few towels for her salary. A worker in a bicycle tube factory had a few tubes for his monthly salary.
La vie des paysans du Sud et des travailleurs après 1975: Les agriculteurs et les travailleurs sont deux classes de base sous le communisme. Théoriquement, ils sont les plus favorisés et aimés des communistes. Après la prise du Sud, les communistes rassemblèrent un grand nombre de terres agricoles dans des fermes collectives. Après la récolte, le riz et les produits agricoles furent emmagasinés temporairement. Les agriculteurs furent réunis pour de longues lectures sur le grand mérite du Parti et de l'oncle Hô, qui les avait complètement libérés de l'exploitation de la société capitaliste. Maintenant, les agriculteurs étaient les véritables propriétaires de la coopérative et du pays tout entier. Sous les armes des soldats communistes, les agriculteurs payèrent les taxes avec le riz, et utilisèrent également le riz pour payer à la coopérative l'essence et les engrais. Les dirigeants et les membres du comité prirent leur riz. Ensuite, les agriculteurs divisèrent le reste de la nourriture entre eux. La plupart du temps, les agriculteurs obtinrent moins d'un quart de ce qu'ils avaient lorsqu'ils travaillaient pour eux-mêmes. Le chef se donnait un avis quotidien sur la façon dont il s'était acquitté de ses responsabilités. Il notait également les agriculteurs sur la façon dont ils avaient accomplis leurs devoirs. Habituellement, le chef se donnait la meilleure note, puis attribuait à sa famille la deuxième note la plus élevée. Ceux qui avaient fait le travail en réalité obtenaient les notes les plus basses. Par conséquent, les agriculteurs ne travaillaient pas aussi dur qu’auparavant. La production agricole diminua. La société devint pauvre et souffrit de la faim. Les agriculteurs avaient la chanson suivante pour décrire la répartition inéquitable: « Chaque personne travaille deux fois plus, Ainsi, le chef peut acheter sa radio et sa bicyclette. Chaque personne travaille trois fois plus, Ainsi, le chef peut construire sa maison et sa cour! Les travailleurs eurent également à endurer de longues conférences sur le grand mérite de l'oncle Hô et le parti qui les avaient libérés de l'exploitation de la classe capitaliste. On leur dit qu'ils avaient l'habitude de travailler dur pour enrichir les propriétaires d'usines et que leur rémunération était trop faible. Maintenant, ils sont les nouveaux propriétaires de l'ensemble du pays, de sorte qu'ils doivent travailler encore plus dur pour construire la société nouvelle et heureuse sans l'exploitation « de l'homme par l'homme ». Ensuite, les travailleurs reçurent de nouveaux salaires selon un nouveau barème. Malheureusement, la plupart d'entre eux ramenaient maintenant moins de 20% de ce qu'ils gagnaient avant. Les ouvriers furent dépouillés jusqu’à l'os. Ils durent vendre leurs biens les plus précieux aux communistes qui avaient plus d'argent. La malnutrition affecta la santé et la productivité des travailleurs. Des produits de mauvaise qualité furent vus partout. Par exemple, des vélos neuf d'une usine d’état pouvaient se plier à tout à moment, causant des accidents dans la rue. Comme ces produits de mauvaise qualité ne pouvaient pas rivaliser sur le marché international, les usines d’état n'eurent pas d'argent pour payer les travailleurs. De nombreuses usines payèrent leurs travailleurs avec leurs produits. Par exemple, pour son salaire mensuel, un travailleur dans une fabrique de cigarettes recevait une vingtaine de paquets de cigarettes, un travailleur dans une usine de textile quelques serviettes et un travailleur dans une usine de tubes de bicyclette quelques tubes.
with them, using beautiful descriptions of the North that nobody ever seen. With their clever use of propaganda accompanying with terrorist acts, the VC gradually gained support from many southerners and succeeded in installing their spies into the southern government to destroy the young democracy that the South was just building up.
La guerre Nord-Sud de 1954-1975: A partir de 1954, le Nord souffrit d'un régime dictatorial communiste, tandis que le Sud fut un pays prospère et libre. Selon la convention de Genève de 1954, les viêtnamiens purent choisir le pays où ils voulaient vivre. Ensuite il aurait dû y avoir une élection générale pour choisir le chef du pays dans les 2 ans. Mais dès le premier jour, les communistes se mirent à violer l'accord. Dans le Nord, les communistes interdirent aux gens d’aller au Sud ; Ils emprisonnèrent, tirèrent et abattirent beaucoup de réfugiés. Dans le Sud, ils enterrèrent les armes, installèrent des cadres communistes pour préparer la guerre et perturber les résultats de l'élection, si nécessaire. Connaissant ce plan, le président Ngô Dình Diêm refusa d'adhérer à l'élection et se résolut à mettre en place un gouvernement fort pour protéger le Sud des communistes. Prenant cette chance, les communistes commencèrent à attaquer le Sud. Ils créèrent le « Front de libération du Sud » pour dissimuler leur invasion. Avec un grand nombre d'armes en provenance de l'Union soviétique et de la Chine, ils attaquèrent le Sud alors que les gens vivaient une vie paisible. D'une part, ils se plaignirent de « l'invasion » par l'armée américaine. D'autre part, ils essayèrent de persuader les agriculteurs du Sud de se joindre à eux en utilisant de belles descriptions du Nord que personne n'avait jamais vu. Avec leur utilisation habile de la propagande accompagnée d’actes terroristes, le viêt công gagna progressivement le soutien de nombreux habitants du sud et réussit à installer leurs espions dans le gouvernement pour détruire la jeune démocratie que le Sud commençait à mettre en place.
Cuộc Tấn Công Tết Mậu Thân, 1968: Hàng năm vào các ngày Tết Âm lịch, Việt Cộng đề nghị hưu chiến để quân dân hai bên có dịp đoàn tụ với gia đình trong những ngày đầu năm. Lợi dụng những ngày hưu chiến Tết Mậu Thân 1968, vào giờ giao thừa thiêng liêng của dân tộc, Việt Cộng tấn công vào hơn 40 tỉnh lỵ và thành phố lớn của miền Nam. Cuộc tấn công chia làm 3 đợt lớn, họ chiếm được một vài thành phố trong một thời gian ngắn nhưng sau cùng họ bị quân đội miền Nam và quân đội Đồng minh đẩy lui với những tổn thất rất nặng nề. Phía Việt Cộng có khoãng 55 ngàn binh sĩ tử thương và hơn 10 ngàn bị bắt sống. Phía miền Nam có hơn 5 ngàn binh sĩ tử thương và khoảng 1 ngàn bị mất tích. Phía quân đội Đồng Minh có khoảng 5 ngàn binh sĩ tử thương. Nhưng đau đớn nhất là số thường dân miền Nam bị thiệt mạng trên 14 ngàn người trong đó có trên 3 ngàn người bị Cộng quân chôn sống hoặc giết chết một cách dã man tại Huế. Trong hơn 50 hầm chôn tập thể ở Huế người ta thấy có cả đàn bà và trẻ em. Những xác đào lên cho thấy những người dân bạc phước ấy bị đập vào đầu, bị chặt đầu, chặt tay chân, hoặc bị chôn sống khi bị trói từng chùm từ 10 đến 15 người . Trong số những người bị Việt Cộng thảm sát có em bé trai 5 tuổi và em bé gái 3 tuổi con ông Phạm Văn Tường làm nghề gác cửa cho ty Thông tin. Việt Cộng bắn chết ông Tường, hai đứa con và 2 đứa cháu nhỏ của ông trước một căn hầm gần nhà.
The Tet Mau Than Offensive, 1968: Taking advantage of the truce during the 1968 Tet holiday, Viet Cong guerrillas attacked more than 40 counties and cities of the South on new year’s eve. The attacks came in three waves. At first, the VC captured a few cities in a short time. Later, they were expelled and sufferred heavy losses by the combined forces of the South and the allied forces. There were 55,000 deaths and 10,000 captives on the VC side. The South lost more than 5,000 soldiers and 1,000 captives. There were 5,000 deaths among the allied forces. But the worst part was that more than 14,000 innocent people were killed. Among them were more than 3,000 who were savagely killed or buried alive by the VC at Hue City. In more than 50 common graves created by the communists, people have found even bodies of women and children. The exhumation showed the unfortunate victims were struck on the head, decapitated, had their arms and legs chopped off, or were even buried alive, tied together in groups of ten to fifteen. Among those painful victims, there were a boy of five and a girl of three years old. They were the children of Mr. Pham Van Tuong who was the door guard of a communication office. The VC shot Mr. Tuong, his two children, and his two nephews in front of a trench next to his house.
L’Offensive du Têt Mâu Thân, 1968: Profitant de la trêve pendant la fête du Têt de 1968, les guérilleros viêt công attaquèrent plus de 40 comtés et grandes villes du Sud à la veille du nouvel an. Les attaques survinrent en trois vagues. Au début, le viêt công captura quelques villes en peu de temps. Plus tard, ils furent expulsés et eurent à subir de lourdes pertes par les forces combinées du Sud et alliées. Il y eu 55000 morts et 10000 prisonniers du côté viêt công. Le Sud perdit plus de 5000 soldats et 1000 prisonniers. Il y eut 5000 morts parmi les forces alliées. Mais le pire c'est que plus de 14000 personnes innocentes furent tuées. Parmi elles, plus de 3000 furent sauvagement tuées ou enterrées vivantes par le viêt công dans la ville Huê. Des corps de femmes et d'enfants ont même trouvés dans plus de 50 fosses communes créées par les communistes. L'exhumation a montré que les malheureuses victimes avaient été frappées à la tête, décapitées, avaient les bras et les jambes coupées, ou ont même été enterrées vivantes, liées ensembles par groupes de dix à quinze. Parmi ces victimes douloureuses, on trouva un garçon de cinq ans et une fille de trois ans. C’étaient les enfants de M. Pham Van Tuòng qui était le garde de la porte d'un bureau de la communication. Le viêt công abattit M. Tuòng, ses deux enfants et ses deux neveux en face d'une tranchée, à côté de sa maison.
Hiệp định Hòa bình Paris, 1973: Bị khó khăn với các phe phản chiến tại nước nhà, chính phủ Hoa Kỳ không thể tiếp tục viện trợ dồi dào cho miền Nam Việt Nam trong công cuộc chống Cộng. Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt hội nghị ở Paris hơn một năm để tìm một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến ở Việt Nam. Ngày 27 tháng 1 năm 1973 hiệp định hòa bình Paris được ký kết giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt. Hiệp định nầy gồm 9 chương và 23 điều quy định những thể thức ngưng bắn, rút quân, tổng tuyển cử ở miền Nam để nhân dân miền Nam được tự quyết số phận của mình. Hiệp định qui định về cách thành lập các Ủy ban Liên Hợp Quân Sự Bốn bên, các ủy hội Kiểm Soát và Giám Sát Quốc Tế. Hiệp định cũng ấn định về các tái thiết hậu chiến cho Việt Nam và cả Đông Dương. Về phía Hoa Kỳ, hiệp định Paris là cơ hội cho họ rút quân ra khỏi Việt Nam trong danh dự, chấm dứt sự liên hệ vào một cuộc chiến tốn kém nhiều tiền bạc và sinh mạng của quân đội Hoa Kỳ. Về phía Việt cộng, đây là một cơ hội tốt cho họ tấn công và chiếm trọn miền Nam mà không có sự can thiệp của quân đội Mỹ. Ngay trước khi hiệp định được ký kết, cán binh Việt cộng đã được học tập kỹ lưỡng về các kế hoạch vi phạm hiệp định, tiến chiếm, dành dân lấn đất. Sau đó thay vì ngưng bắn xây dựng hòa bình như tinh thần của hiệp định Paris, Việt cộng lại tấn công mạnh mẽ hơn để cuối cùng chiếm trọn miền Nam, năm 1975.
The Paris Peace Treaty in 1973: Having difficulty with the anti-war movement at home, the U. S. government could not continue to help the South government to fight the communists. The U. S. government and the Communists met in Paris for more than 1 year to find a peaceful solution for the Vietnam war. On January 27, 1973, the Paris Peace Treaty was signed by the U. S., the North, the South of Vietnam and the Liberation Front. The Treaty included 9 chapters and 23 articles, establishing the rules to cease-fire, to withdraw the armies, and to have general election at the South so the southerners can make decision for their own future. The Peace Treaty schemed the building of the Four-Side Army Committee, and the International Control Committees. The Treaty also planned for the post-war rebuild for Vietnam and for the entire Indochina. For the United States, the Treaty is a good chance to withdraw its army from Vietnam, ending an expensive war. For the VC, the Treaty is a wonderful opportunity for them to seize the South without the obstruction of the U. S. army. Similar to the Geneva agreement, before the treaty was signed, the communists already had a plan to break the agreement to capture the South. Instead of peacefully following the 1973 Treaty, the communists attacked the South with all of their strength to finally capture the South in 1975.
Le traité de paix de Paris en 1973: Ayant des difficultés avec le mouvement anti-guerre dans son pays, le gouvernement américain ne put continuer à aider le gouvernement du Sud à lutter contre les communistes. Le gouvernement américain et les communistes se réunirent à Paris pendant plus d’un an pour trouver une solution pacifique à la guerre du Viêt-Nam. Le 27 Janvier 1973, le traité de paix de Paris fut signé par les Etats-Unis, le Nord, le Sud du Viêt-Nam et le Front de Libération. Le Traité comprenait 9 chapitres et 23 articles, établissant les règles de cessez-le-feu, de retrait des armées et de tenue d’élections générales dans le Sud de sorte que les sudistes puissent prendre des décisions pour leur propre avenir. Le traité de paix projetait la construction d’un comité quadripartite de l’armée, et de comités de contrôle international. Le traité prévoyait également la reconstruction du Viêtnam et de toute l’Indochine après-guerre. Pour les États-Unis, le traité fut une bonne chance de retirer leur armée du Viêt-Nam, mettant fin à une guerre coûteuse. Pour le viêt công, le traité fut une merveilleuse occasion de s'emparer du Sud sans l'obstruction de l'armée américaine. Semblable à l'accord de Genève, avant que le traité ait été signé, les communistes avaient déjà un plan visant à le rompre pour capturer le Sud. Au lieu d’appliquer tranquillement le Traité de 1973, les communistes attaquèrent le Sud avec toutes leurs forces pour le capturer enfin en 1975.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, một chiếc xe tăng Cộng sản Bắc Việt do Liên Xô chế tạo đã ủi sập cổng trước dinh Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, ủi sập luôn nền dân chủ non trẻ, mà dân tộc Việt Nam xây dựng lần đầu tiên trong mấy ngàn năm lịch sử của mình. Sau đó cả đất nước Việt Nam đi ngược dòng tiến hóa, sống trong xã hội độc tài Cộng Sản. Xã hội bất công và thối nát, dân chúng lầm than hơn trong các chế độ phong kiến vua chúa ngày xưa nhiều lần.
Le 30 avril 1975, un tank Nord Viêtnamien communiste de fabrication soviétique enfonça les grilles du palais du Président de la République du Viêt-Nam du Sud, par cette action il écrasa aussi la première démocratie naissante au Viêt-Nam après des milliers d’années d’histoire du Viêt-Nam.
Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam năm 1975: Cộng Sản Bắc Việt dùng chiêu bài "Chống Mỹ cứu nước" để lường gạt nhân dân Việt Nam và thế giới . Mục tiêu thật sự của họ là Cộng Sản hóa nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản độc tài. Với sự hỗ trợ mạnh mẽ về súng đạn của Liên Xô, Trung Cộng, Cộng Sản dần dần thắng thế trong công cuộc phá rối xã hội miền Nam. Cùng lúc đó chính quyền miền Nam rối ren vì những cuộc đảo chánh nối tiếp nhau, vì những tướng lãnh bất tài, không có lòng yêu nước thay nhau nắm chính quyền làm mất lòng dân. Vì quyền lợi nước Mỹ không còn trực tiếp dính líu tới miền Nam và vì áp lực của các lực lượng phản chiến tại nước Mỹ, chính quyền miền Nam không còn được tiếp tế đầy đủ như trước. Quân đội miền Nam trở nên yếu thế, dù rằng quân nhân miền Nam vẫn còn chiến đấu anh dũng để bảo vệ quê hương. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau nhiều ngày rối ren, miền Nam thất thủ. Một số tướng lãnh như tướng Nguyễn Khoa Nam, tướng Lê Văn Hưng, tướng Trần Văn Hai, tướng Phạm Văn Phú, tướng Lê Nguyên Vỹ tuẫn tiết, một số ở lại bị Việt Cộng giết như Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Một số bỏ nước ra đi, phần còn lại bị Việt Cộng bắt giam, đày đọa trong các trại tập trung. Nhìn trở lại, quân đội miền Nam đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ quê hương tự do. Nhưng người Cộng Sản đã khéo léo hơn trong lãnh vực tuyên truyền và tổ chức. Họ đã huấn luyện quần chúng thành một đội binh "quân đội nhân dân" mà mọi người phải đóng góp vào cuộc chiến. Gián điệp của họ đã xâm nhập vào xã hội lỏng lẻo của miền Nam tạo nên tình trạng hỗn độn, rối ren để cho Bắc quân có thể đánh bại miền Nam. Trong suốt cuộc chiến, miền Băc thiệt hại 1 triệu rưỡi binh lính, miền Nam mất khoãng 400 ngàn, quân đội Hoa Kỳ đã mất 58 ngàn cùng với binh sĩ Đồng Minh khi giúp đỡ miền Nam. Ngoài ra còn vài triệu người dân vô tội đã chết trên trong cuộc chiến. Ai cũng có thể thấy cuộc chiến Việt Nam không cần phải có, vì chế độ Cộng sản chỉ là một chế độ độc tài, khát máu, không tôn trọng người dân, không cần thiết cho đất nước Việt Nam hay bất cứ đất nước nào trên thế giới. Thiên đường Cộng Sản mà họ diễn tả cũng chưa bao giờ hiện diện mà chỉ có những nước Cộng Sản với đầy dẫy những sự nghèo đói, giết chóc, bắt bớ, hận thù. Khẩu hiệu "Chống Mỹ cứu nước" chỉ là những lời vô nghĩa vì Hoa Kỳ chưa hề xâm chiếm Việt Nam. Sau khi Cộng Sản đánh đuổi người Mỹ đi, một thời gian ngắn sau, cũng chính họ cung kính mời người Mỹ vào.
Viet Cong captured the South in 1975: The northern communists used the slogan “Fight the Americans to save the country” to deceive the Vietnamese and the world. Their actual goal was to communize Vietnam under the dictatorial communist party. With massive help from the Soviet Union and China, the communists gradually won the war. At the same time, the southern government was destabilized by many coups d’etat, with army generals who had no patriotic hearts taking turns to govern the South. Because the interests of the United States were not directly related to South Vietnam, and with strong pressure from anti-war forces at home, the U.S. government stopped aiding to the South. The Southern army became weaker even though most of the soldiers still bravely fought to protect their homeland. In April 30 of 1975, after many days in chaos, the South surrendered. Some respectable generals, including Nguyen Khoa Nam, Le Van Hung, Tran Van Hai, Pham Van Phu, and Le Nguyen Vy, committed suicide. Others, such as Colonel Ho Ngoc Can, was killed by the communists. Many soldiers escaped to overseas and a large number were gathered in concentration camps. Looking back, the southern soldiers were very brave in defending their freedom and their motherland. But the communists were much clever in propaganda, organization and use violent force. They trained the general public to be the “people army” where everybody had to contribute toward the war. Their spies broke into the loose society of the South, caused confusion and destabilized the government so that their army could defeat the South. During the war, the North lost 1.4 million soldiers, the South lost 400 thousand, and the U.S. lost 58 thousand in helping the South. In addition, millions of innocent citizens were killed in the war. Obviously, the Vietnam war, started by the communists, was just a waste of people lives. The communism is just a bloody dictatorship that disrespects its citizens. The war was not necessary for Vietnam or any other country on earth. The communist haven that they always mention has never existed, but there are only communist countries with full of poverty, murder, hate and prisoners. The invading of the U.S. in Vietnam, as the VC cried, was also not real. The slogan “Fight Americans to save the country” is empty, since the communists have chased the Americans away and have respectfully invited them back.
Le viêt công capture le Sud en 1975: Les communistes du Nord utilisèrent le slogan « combattre les Américains pour sauver le pays » afin de tromper les viêtnamiens et le monde. Leur objectif réel était de communiser le Viêt-Nam dans le cadre du parti communiste dictatorial. Avec l'aide massive de l'Union soviétique et de la Chine, les communistes gagnèrent progressivement la guerre. Dans le même temps, le gouvernement du Sud fut déstabilisé par de nombreux coups d'Etat de généraux de l'armée qui n'avaient pas de cœur patriotique, pour gouverner à tour de rôle le Sud. Parce que les intérêts des États-Unis n'étaient pas directement liés au Sud-Viêt-Nam, et avec une forte pression des forces anti-guerre internes, le gouvernement américain cessa d'aider le Sud. L'armée du Sud devint plus faible, même si la plupart des soldats combattaient encore bravement pour protéger leur patrie. Le 30 avril 1975, après de nombreux jours dans le chaos, le Sud se rendit. Certains généraux respectables, y compris Nguyên Khoa Nam, Lê Van Hung, Trân Van Hai, Pham Van Phu, et Lê Nguyên Vy, se suicidèrent. D'autres, comme le colonel Hô Ngoc Cân, furent tués par les communistes. Beaucoup de soldats s’échappèrent à l'étranger et un grand nombre furent rassemblés dans des camps de concentration. Avec le recul, les soldats du sud furent très courageux dans la défense de leur liberté et de leur patrie. Mais les communistes furent beaucoup plus habiles à la propagande, à l'organisation et au recours à la force violente. Ils formèrent la population générale à être « l'armée du peuple », où chacun dut contribuer à la guerre. Leurs espions firent irruption dans la société relâchée du Sud, semèrent la confusion et déstabilisèrent le gouvernement pour que leur armée puisse vaincre le Sud. Pendant la guerre, le Nord perdit 1,4 million de soldats, le Sud en perdit 400.000, et les États-Unis en perdirent 58.000 en aidant le Sud. En outre, des millions de citoyens innocents furent tués. De toute évidence, la guerre du Viêt-Nam, fut initiée par les communistes et ne fut qu’un gaspillage de vies. Le communisme n’est qu’une dictature sanguinaire qui ne respecte pas ses citoyens. La guerre n'était pas nécessaire pour le Viêt-Nam comme pour tout autre pays sur terre. Le paradis communiste qu’ils mentionnent toujours n'a jamais existé. Il n'y a que dans les pays communistes que l’on rencontre la pauvreté généralisée, des assassinas, de la haine et des prisonniers. L'invasion du Viêt-Nam par les États-Unis comme le dit le viêt công n'était pas réel. Le slogan « combattre les Américains pour sauver le pays » est vide de sens, puisque les communistes ayant chassé les Américains au loin les ont respectueusement invités à revenir plus tard.
Đời sống và xã hội miền Nam từ 1975 đến 1985: Với chủ trương quản lý xã hội, quản lý con người, chánh quyền Cộng Sản kiểm soát gắt gao nhân dân miền Nam. Trạm công an, trạm thuế vụ mọc lên san sát trên mọi trục lộ giao thông để tịch thu hàng hóa, bắt bớ người dân. Mọi sự di chuyển, mọi sự chuyên chở hàng hóa từ 1 kilô đường, 1 kilô gạo, 1 kilô thịt đều phải xin phép chính quyền Cộng Sản. Ruộng đất, cơ sở kinh doanh đều thuộc sự quản lý của nhà nước. Người dân phải đóng thuế cho nhà nước gấp nhiều lần họ đóng thuế cho chính quyền Pháp đô hộ xưa kia, cao gấp 10 lần đóng cho chính quyền Việt Nam Cộng Hoà lúc trước. Vì không đủ tiền đóng thuế, nông dân miền Nam bị bắt bớ, tù đày, bị chiếm đoạt đất đai. Vào những năm 1976 đến 1980, lúa gạo của nhân dân miền Nam bị thu nạp đổ thành đống cao như núi giữa trời, mặc cho nắng mưa hư hỏng mục nát. Dù rằng đất nước đang nghèo nàn, hệ thống điều hành tồi tệ của chính quyền Cộng Sản rất phung phí của cải vật chất của nhân dân làm nên. Những người dân giàu có, những nhà kinh doanh có tài của miền Nam bị tịch thu gia sản, gia đình bị đày đi khai khẩn đất hoang, được gọi là vùng kinh tế mới. Tiền miền Nam được hoán đổi với một tỉ lệ cực kỳ bất công là 500 đồng miền Nam ăn 1 đồng miền Bắc khiến cho dân miền Nam thành nghèo khó phải bán đồ cho cán bộ miền Bắc với giá cực rẽ gần như cho không. Tài sản thu chiếm được của nhân dân miền Nam được chia chác giữa những đảng viên Cộng Sản và những người theo họ. Hậu quả là xã hội rối loạn từ vật chất lẫn tinh thần, mức sản xuất tụt giảm nhanh chóng. Nạn đói xảy ra ngay tại đồng bằng sông Cửu Long là nơi trù phú nhất của đất nước. Một số lớn trẻ em nông thôn bỏ học, giáo viên bỏ nghề vì nghèo đói. Học sinh đi học phải mang theo gạo, khoai đóng cho cô giáo. Thầy cô giáo đi dạy phải mang theo cà rem, bánh, trái cây bán cho học sinh vì tiền lương không đủ sống. Thiếu những phương tiện tối thiểu để học tập và bị cô lập với thế giới bên ngoài, nền giáo dục của miền Nam bị suy thoái trầm trọng. Từ những bài học kinh tế, xã hội ở miền Bắc sau năm 1954 và ở miền Nam sau năm 1975, người dân rút được một kinh nghiệm là khi chủ nghĩa Cộng Sản khống chế nơi nào, xã hội nơi đó trở nên nghèo đói, dân trí trở nên ngu dốt, đất nước hoặc là không tiến bộ, hoặc bị thụt lùi. Sau sự sụp đổ của các nước Cộng Sản Đông Âu vào cuối thập niên 1980, Cộng Sản Việt Nam bắt đầu cởi mở để mong đạt được những tiến bộ về kinh tế, nhưng chế độ độc tài Cộng Sản vẫn còn cai trị đất nước, kềm hãm sự tiến bộ của cả dân tộc.
Life in the South from 1975 to 1985: With the policy “control the society, control the people”, the communist government strictly controlled the South Vietnamese. They set up police and tax stations along the main roads to capture people and material. Any one going from one to another district; any transportation of more than 1 kilo of sugar, 1 kilo of rice, or 1 kilo of meat had to have permission from the communist government. Farmlands and factories were under the management of the government. People had to pay very high taxes, many times of what they paid to the French colonists and about 10 times of what they paid to the previous Southern government. Many southern farmers were imprisoned, or lost their land to the communists since they did not have enough money to pay for the high taxes. During the period from 1976 to 1980, farmers’ rice was collected and piled up like hills outdoor, wet and spoiled by rain. Even though the country was very poor, the wicked distributing system of the communists wasted a large portion of the national product. Consequently, the people became physically and mentally unhealthy. Productivity went down quickly. Starving happened right in the Mekong delta, the richest area of the country. Country students quit school and teachers quit teaching because of their poverty. In many districts, students going to school had to carry rice or sweet potatoes to pay to their teachers, and the teachers carried ice cream and candy to sell to the students during break times for additional income. Being poorly equipped and isolated from the rest of the world, the national education system deteriorated quickly. From the economical and social lessons of the North after 1954 and the South after 1975, the Vietnamese have learned that wherever the communists have taken control, people will be starved, uneducated, and the country as a whole would go backward. After the collapse of the East European communists at the end of 1980’s, the VC started to open to economic reform. But the dictatorial communists still controlled the whole country, putting a brake on the progress of the Vietnamese.
Đời sống của nông dân và công nhân miền Nam sau 1975: Giai cấp nông dân và công nhân là hai giai cấp nồng cốt dưới chế độ Cộng Sản. Cộng Sản Việt Nam long trọng tuyên bố đó là 2 giai cấp được yêu mến và ưu đải nhất trong xã hội. Sau khi chiếm được miền Nam, đảng Cộng Sản bắt đầu thu gom một số ruộng đất của nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp. Sau mỗi mùa gặt, nông phẩm được tập trung vào kho, nông dân được tập họp nghe những bài nói chuyện dài lê thê về công ơn trời biển của đảng và của Bác Hồ đã hoàn toàn giải phóng nông dân khỏi sự bóc lột của xã hội tư bản. Ngày nay, nông dân là người chủ thật sự của ruộng đất (dù rằng đất của họ đã bị hợp tác xã chiếm hữu không bồi thường). Trước sự hiện diện của lính du kích có vũ trang, họ phải tự xúc lúa đóng thuế cho nhà nước, trả tiền xăng nhớt và phân bón cho hợp tác xã. Sau đó dến chủ nhiệm hợp tác xã và ban lãnh đạo lãnh phần. Rồi sau cùng đến phần nông dân chia nhau số lúa còn lại. Thường thì nông dân lãnh không tới một phần tư số lúa mà họ có được khi họ tự canh tác ruộng đất của họ trước kia. Mỗi hợp tác xã được chỉ huy bởi một chủ nhiệm là đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam. Chủ nhiệm và viên thơ ký chịu trách nhiệm chấm công hàng ngày cho nông dân và cho chính mình. Chủ nhiệm được công điểm cao nhất rồi đến bà con họ hàng của chủ nhiệm. Sau cùng là nông dân thường được điểm thấp nhất và chịu thiệt thòi nhất. Hậu quả là nông dân không còn chăm chỉ làm việc như xưa, sản lượng thấp, xã hội nghèo nàn và đói kém. Nông dân miền Bắc có bài hát để nêu lên tình trạng bất công nói trên:
"Mỗi người làm việc bằng hai, Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe. Mỗi người làm việc bằng ba, Để cho chủ nhiệm xây nhà, xây sân !"
Về phía công nhân, họ cũng được học những bài học chính trị hàng tuần nói về công ơn trời biển của bác Hồ và của đảng Cộng Sản Việt Nam đã hoàn toàn giải phóng họ khỏi sự bóc lột của giai cấp tư bản, dù rằng đời sống vật chất của họ rất cơ cực và thiếu thốn nhiều. Họ được cho biết ngày trước họ làm ra sản phẩm chỉ để làm giàu cho chủ, còn họ không được đền bù xứng đáng. Ngày nay công nhân là những người chủ của đất nước vì thế họ cần phải làm việc nhiều hơn, tích cực hơn để xây dựng xã hội mới công bằng và hạnh phúc, không còn cảnh người bóc lột người. Sau đó công nhân được xếp loại theo bảng lương mới, thưng thì chưa tới 20% giá trị số lương trước kia. Hậu quả là công nhân nghèo đói phải đem bán những sản vật có giá trị như xe gắn máy, tủ lạnh, quần áo cho cán bộ Cộng sản là những người có nhiều tiền hơn, lãnh lương cao hơn. Đi sống của công nhân sa sút trầm trọng, nghèo nàn, ảnh hưởng đến sức khỏe, năng suất làm việc của toàn xã hội. Hậu quả là sản phẩm làm ra không có chất lượng. Một chiếc xe đạp quốc doanh mua về mới chạy một vài lần có thể gãy đổ bất thình lình, gây tai nạn cho người lái và khách đi đường. Vì hàng hóa không đủ tốt để cạnh tranh, xuất cảng, xí nghiệp không có tiền trả lương. Nhiều trường hợp công nhân được phát sản phẩm trừ lương. Thí dụ như, công nhân hãng thuốc lá được phát vài chục gói thuốc lá cho một tháng lương, công nhân hãng dệt lãnh khăn rằn thay lương, công nhân hãng ruột xe đạp lãnh vài cái ruột xe thay cho một tháng lương.
Life of the South farmers and the workers after 1975: Farmers and workers are two basic classes under Communism. Theoretically, they are the most favored and beloved by the communists. After capturing the South, the communists collected many of the farmlands into collective farms. After the harvest, rice and farm products were put into a temporary store. The farmers were gathered for long lectures about the great merit of the party and of uncle Ho, who had completely liberated them from the exploitation of the capitalist society. Now, farmers were the real owners of the cooperative and the whole country. Under the guns of the communist soldiers, farmers paid taxes with the rice, and also used the rice to pay the cooperative for gasoline and fertilizer. The leaders and the committee members took their rice. Then the farmers divided the rest of the food among themselves. Most of the time the farmers got less than a quarter of what they had when they worked by themselves. The leader gave him a daily rating on how well he had fulfilled his responsibilities. He also rated the farmers on how well they had done their duties. Usually, the leader gave him the highest score, and then gave his relatives the next highest score. Those who did the actual work—the farmers—got the lowest scores. Consequently, the farmers did not work as hard as before. The farm production went down. The society became poor and suffered hunger. Farmers had the following song to describe that unfair distribution:
“Each person works as double, So the leader can buy his radio and his bicycle. Each person works as triple, So the leader can build his house and his yard !”
Workers also had to endure long lectures about the great merit of uncle Ho and the party who freed them from the exploitation of the capitalist class. They were told that they used to work hard to make the factory owners rich and their compensation was too little. Now they were the new owners of the whole country, so they had to work even harder to build up the new and happy society without the “exploitation of man by man”. Then the workers received new salaries according to a new scale. Unfortunately, most of them now brought home less than 20% of what they used to earn before. The workers were stripped to the bone. They had to sell most their valuable belongings to the communists, who had more money. Malnutrition has affected the health and the productivity of the workers. Products with poor quality were seen everywhere. For example, brand new bicycles from a state-ran factory might collapse all of a sudden, causing accidents on the street. Since products with poor quality could not compete in the international market, the state-ran factories did not have money to pay the workers. Many factories paid their workers with their products. For instance, a worker in a cigarette factory received two cartons of cigarettes for his monthly salary. A worker in a texture factory received a few towels for her salary. A worker in a bicycle tube factory had a few tubes for his monthly salary.
La vie des paysans du Sud et des travailleurs après 1975: Les agriculteurs et les travailleurs sont deux classes de base sous le communisme. Théoriquement, ils sont les plus favorisés et aimés des communistes. Après la prise du Sud, les communistes rassemblèrent un grand nombre de terres agricoles dans des fermes collectives. Après la récolte, le riz et les produits agricoles furent emmagasinés temporairement. Les agriculteurs furent réunis pour de longues lectures sur le grand mérite du Parti et de l'oncle Hô, qui les avait complètement libérés de l'exploitation de la société capitaliste. Maintenant, les agriculteurs étaient les véritables propriétaires de la coopérative et du pays tout entier. Sous les armes des soldats communistes, les agriculteurs payèrent les taxes avec le riz, et utilisèrent également le riz pour payer à la coopérative l'essence et les engrais. Les dirigeants et les membres du comité prirent leur riz. Ensuite, les agriculteurs divisèrent le reste de la nourriture entre eux. La plupart du temps, les agriculteurs obtinrent moins d'un quart de ce qu'ils avaient lorsqu'ils travaillaient pour eux-mêmes. Le chef se donnait un avis quotidien sur la façon dont il s'était acquitté de ses responsabilités. Il notait également les agriculteurs sur la façon dont ils avaient accomplis leurs devoirs. Habituellement, le chef se donnait la meilleure note, puis attribuait à sa famille la deuxième note la plus élevée. Ceux qui avaient fait le travail en réalité obtenaient les notes les plus basses. Par conséquent, les agriculteurs ne travaillaient pas aussi dur qu’auparavant. La production agricole diminua. La société devint pauvre et souffrit de la faim. Les agriculteurs avaient la chanson suivante pour décrire la répartition inéquitable: « Chaque personne travaille deux fois plus, Ainsi, le chef peut acheter sa radio et sa bicyclette. Chaque personne travaille trois fois plus, Ainsi, le chef peut construire sa maison et sa cour! Les travailleurs eurent également à endurer de longues conférences sur le grand mérite de l'oncle Hô et le parti qui les avaient libérés de l'exploitation de la classe capitaliste. On leur dit qu'ils avaient l'habitude de travailler dur pour enrichir les propriétaires d'usines et que leur rémunération était trop faible. Maintenant, ils sont les nouveaux propriétaires de l'ensemble du pays, de sorte qu'ils doivent travailler encore plus dur pour construire la société nouvelle et heureuse sans l'exploitation « de l'homme par l'homme ». Ensuite, les travailleurs reçurent de nouveaux salaires selon un nouveau barème. Malheureusement, la plupart d'entre eux ramenaient maintenant moins de 20% de ce qu'ils gagnaient avant. Les ouvriers furent dépouillés jusqu’à l'os. Ils durent vendre leurs biens les plus précieux aux communistes qui avaient plus d'argent. La malnutrition affecta la santé et la productivité des travailleurs. Des produits de mauvaise qualité furent vus partout. Par exemple, des vélos neuf d'une usine d’état pouvaient se plier à tout à moment, causant des accidents dans la rue. Comme ces produits de mauvaise qualité ne pouvaient pas rivaliser sur le marché international, les usines d’état n'eurent pas d'argent pour payer les travailleurs. De nombreuses usines payèrent leurs travailleurs avec leurs produits. Par exemple, pour son salaire mensuel, un travailleur dans une fabrique de cigarettes recevait une vingtaine de paquets de cigarettes, un travailleur dans une usine de textile quelques serviettes et un travailleur dans une usine de tubes de bicyclette quelques tubes.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét